ÔN TẬP
- Lấy giáo trình + Bài giảng
- Thi được dùng 2 tài liệu này
- Thi 90 phút 4 câu có câu chép được theo giáo trình
- Không được bỏ câu, không được bỏ ý trả lời.
- Tiểu luận + điểm
Trong tâm ôn: Chương 2, 3, 5 8
Chương 1:
- Khái niệm triết học
- Khái niệm triết lý
- Khái niệm triết học phương đông + đặc điểm
- Khái niệm triết học phương tây + đặc điểm
Chương 2, 3, 8 đều có 2 phần: Trước Mác và Mác
Câu hỏi: Đặc điểm của triết học trước Mác:
+ Phương Đông
+ Phương Tây
Bản thể luận triết học trước Mác:
+ Phương Đông: (Ngũ hành, Phật giáo)
+ Phương Tây: (cổ đại hi lạp, triết học cổ điển Đức)
Đặc điểm triết học Mác?
Bản thể luận triết học Mác?
Các dạng câu hỏi:
-- Nội dung
-- Liên hệ thực tiễn Việt Nam
-- Suy luận: nhận định sau đây đúng hay sai theo Bản thể luận triết học Mác.
Cách làm:
+ Trình bày tóm tắt nội dung
+ Nhận định các giá trị, hạn chế của nó
Chương 5: Thuần túy triết học Mác
Cách trả lời của câu suy luận: Đúng nhưng chưa đủ. Kết hợp khách quan và chủ quan.
Khi trả lời các vấn đề liên quan đến con người, xã hội bao giờ cũng phải có:
- Khách quan
- Chủ quan (nhận thức của con người)
Khách quan quyết định, chủ quan tác động.
CÂU HỎI TRIẾT CAO HỌC QUẢN TRỊ NHÂN LỰC KINH TẾ QUỐC DÂN
I. Luận điểm sau đây có đúng không ? Giải thích!
1. Trong nhận thức và thực tiễn cần phải phát huy năng động chủ quan?
2. Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan?
3. Đối với nhân loại, không có vấn đề gì là không thể giải quyết được?
Giải: Cần theo 3 phương án: đúng, sai, đúng nhưng chưa đủ hoặc sai nhưng không hoàn toàn.
1. Nếu theo phương pháp luận của Bản thể luận triết học Mac như …. , dựa vào đây có thể thấy đúng nhưng chưa đầy đủ. Câu đúng là: Trong nhận thức và thực tiễn cần phải phát huy năng động chủ quan trên cơ sở điều kiện khách quan.
2. Tương tự 1: Nếu theo phương pháp luận của Bản thể luận triết học Mac như … dựa vào đây có thể thấy trong nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan kết hợp với phát huy năng động chủ quan để tìm sự tối ưu trong điều kiện khách quan.
3. Đúng. Nếu theo phương pháp luận của Bản thể luận Triết học Mác như …., dựa vào đây có thể thấy đúng nếu đây là nhân loại. Nhiều vấn đề nếu thời điểm này không giải quyết được do thiếu điều kiện khách quan thì thời gian sau, nhân loại có thể giải được. Điều này có được là do khả năng sáng tạo của nhân loại là vô tận.
II. Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mac:
+ Xét về mặt khách quan
+ Xét về mặt chủ quan
1. Tại sao con người có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau, để đảm bảo sự học hỏi đó có giá trị đúng đắn, cần phải làm gì?
Trả lời:
1.1 Tại sao con người có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau:
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, kinh nghiệm đó thể hiện trình độ làm chủ của con người đối với lực lượng tự nhiên và lực lượng xã hội. Nó thể hiện một cách khách quan, được vật thể hóa trong nền văn hóa vật chất và tinh thần của xã hội. Nó có thể ở trong những vật thể cụ thể, trong công cụ sản xuất, trong các quan hệ xã hội, trong ngôn ngữ hoặc trong những hình thức và phương pháp tư duy... Quá trình con người nắm lấy kinh nghiệm của đời sống xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa sự đối tượng hóa (khách quan hóa) với việc cá thể con người giành lấy (chủ quan hóa) bản chất xã hội của mình. Ví dụ, trong quá trình lao động, con người không chỉ phát triển năng lực của mình mà trong quá trình đó, con người đã đối tượng hóa các năng lực ấy trong các vật phẩm. Các vật phẩm đó là kinh nghiệm của con người được kết tinh dưới hình thức vật chất và mang tính khách quan. Các thế hệ sau sử dụng những vật phẩm đó cũng có nghĩa là nắm lấy những kinh nghiệm đã có (chủ quan hóa). Điều này cũng tương tự như trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như đạo đức, thẩm mỹ… Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy, trong quá trình sống của mình, con người có vô vàn mối quan hệ, sự giao tiếp với những người khác. Trước tiên, khi sinh ra, họ là thành viên trong một gia đình nào đó và vì vậy, họ có thể là con cái, anh chị, sau nữa, họ có thể trở thành cha mẹ, ông bà... Họ cũng có thể thuộc về một nhóm xã hội (giai tầng, giai cấp) nào đó và qua đó, cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của nhóm xã hội (giai tầng, giai cấp) ấy. Cuối cùng, họ cũng là một cá nhân trong một cộng đồng dân tộc nào đó và do vậy, họ mang trong mình những giá trị đặc trưng của dân tộc ấy... Nghĩa là, trong cả cuộc đời mình, ở con người luôn diễn ra sự quan hệ với những người khác. Chính những nhân tố này quyết định hoạt động, hành vi của con người. Môi trường xã hội chính là nguồn gốc trực tiếp mà ở đó, con người hấp thụ và cũng rút ra những tư tưởng, tri thức, kinh nghiệm của mình.
1.2 Để đảm bảo sự học hỏi đó có giá trị đúng đắn, cần phải làm gì?
Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mác chúng ta biết rằng: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung
Cụ thể là:
• Cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
• Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung, sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
• Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
• Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
Và chúng ta cũng biết sự tồn tại của Cái chung và cái riêng như sau:
• Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất định và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại.
• Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.
Như vậy chúng ta thấy:
- Kinh nghiệm của mỗi con người là một cái riêng. Và kinh nghiệm đó có thể coi như là một bí quyết riêng của mỗi người. Tuy nhiên kinh nghiệm riêng của mỗi người, khi được tập hợp lại sẽ xuất hiện những cái chung giống nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình. Ví dụ như câu tục ngữ: Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bao cao thì nắng, bay vừa thì râm. Kinh nghiệm của mỗi cá nhân khi nhìn thấy con chuồn chuồn là khác nhau. Người thì nhìn thấy chuồn chuồn bao cao, một lúc sau trời nắng. Người thì nhìn thấy chuồn chuồn bay thấp, và cũng một lúc thì trời mưa. Nhiều người tập hợp lại kinh nghiệm riêng, dựa trên số đông để rút ra cái chung. Học hỏi sự đúng đắn là tìm ra cái chung trong cái riêng.
- Con người thông qua cái chung – những sản phẩm được khách quan hóa, sử dụng các sản phẩm có tính chất chung nay để nắm lấy những kinh nghiệm đã có, thông qua các hoạt động thực tiễn sẽ xuất hiện kinh nghiệm cho riêng từng cá nhân. Cho nên việc học hỏi để có thể đúng đắn cần phải có thực hành để cái riêng xuất hiện từ cái chung.
2. Từ 1 hiện tượng có thể kết luận chính xác, đầy đủ bản chất của sự vật được hay không? Cho ví dụ?
Phân tích 2 ý:
- Chính xác không:
+ Xét về mặt khách quan
+ Xét về mặt chủ quan
- Đầy đủ không:
+ Xét về mặt khách quan
+ Xét về mặt chủ quan
Trả lời:
a. Chính xác không? Chưa chính xác
a1. Xét về mặt khách quan: hiện tượng phản ánh chính xác bản chất. Vì theo lý luận biện chứng của triết học Mác: bản chất phải thể hiện qua hiện tượng. Vậy bất cứ 1 hiện tưởng nào cũng phản ánh bản chất. Vậy không có hiện tượng nào thuần túy là hiện tượng. Mỗi 1 hiện tượng phản ánh 1 phần bản chất. Ví dụ ….
a2. Xét về mặt chủ quan: nhận xét nào chưa chính xác. Do mọi hiện tượng đều được phản ánh qua tư duy con người. Đối tượng quan sát là khách quan nhưng lại áp đặt cái chủ quan để nhận xét. Qua chủ quan, con người đống nhất hiện tượng với bản chất. Từ đó hiện tượng không phản ánh chính xác bản chất.
Tuy nhiên cái chủ quan nếu có phương pháp phản ánh thì có thể phản ánh chính xác bản chất.
b. Đầy đủ không ?
b1. Xét về mặt khách quan là không. Không bao giờ đầy đủ vì mỗi một hiện tượng phản ánh 1 phần bản chất. Ví dụ hiện tượng giao thoa chỉ phán ánh được bản chất sóng nhưng không phản ảnh được bản chất hạt của ánh sáng. Một bản chất là tổng hợp của nhiều đặc tính nên phải qua nhiều hiện tượng.
b2. Xét về mặt chủ quan: không thể phản ánh đầy đủ.
Trà lời: Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mác chúng ta biết rằng: cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan xen, chằng chịt. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định. Những mối liên hệ tất nhiên đó tạo thành bản chất của sự vật. Vậy, bản chất là cái tồn tại khách quan gắn liền với sự vật còn hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, cũng là cái khách quan không phải do cảm giác của chủ quan con người quyết định.
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài. Biểu hiện là:
Bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này
Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau.
Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
• Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật trong khi hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
• Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
• Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất hoặc phản ánh không đúng bản chất[9] (ví dụ: Hiện tượng khúc xạ, ảo ảnh).
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
Chính vì vậy: Thường phải quan sát nghiên cứu hiện tượng rất lớn thì mới có thể tìm ra được bản chất. Nhưng về mặt bản chất – hiện tượng thì có thể số lượng lớn hiện tượng không đưa ra được bản chất. Đôi khi chỉ cần 1 hiện tượng có thể suy ra bản chất của sự vật.
Ví dụ:
- Chỉ cần 1 hiện tượng là sự giao thoa của ánh sáng có thể kết luận bản chất của ánh sáng là sóng.
- Hàng nghìn năm con người thấy mặt trời mọc đằng Đông, lặn đằng Tây nhưng không thể ra được bản chất là Trái Đất quay quanh Mặt Trời chứ không phải Mặt Trời quay quanh Trái Đất.
3. Khi xây dựng dự báo vấn đề cần phải căn cứ vào cái gì? Tất nhiên hay ngẫu nhiên?
Trả lời: Mỗi sự vật trong quá trình vận động luôn chiu sự chi phối bởi: Bản chất khách quan của nó và Tác động của môi trường xung quanh sự vật. Cho nên khi xây dựng hoạt động dự báo thì phải căn cứ trên cả tất nhiên và ngẫu nhiên. Nhưng trước hết cơ bản phải dựa trên Tất nhiên. Cái tất nhiên là cái theo quy luật.
Tuy nhiên để cụ thể hóa và chính xác hóa dự báo phải kết hợp với cái ngẫu nhiên bằng cách xây dựng các giả định nếu điều kiện a b c xảy ra thì sẽ như x y z.
Ví dụ: Thả viên phấn. Theo luật hấp dẫn thì viên phấn sẽ rơi vào trái đất (tất nhiên). Tuy nhiên phải phụ thuộc vào môi trường các yếu tố tác động để dự báo tiếp tục. Nếu lực hấp dẫn mạnh, không có gió thì viên phấn rơi thẳng. Nhưng nếu có gió mạnh thì viên phấn sẽ rơi nghiêng.
Trà lời: Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mác chúng ta biết rằng: Tất nhiên tức phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như vậy. Ngẫu nhiên một phạm trù chỉ cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự kết hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định và có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện khác đi
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Trong quá trình phát triển của sự vật không phải chỉ có cái tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng. Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới dạng thuần túy cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy. Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên
Như vậy, muốn xây dựng một dự báo nào đó trong tương lai cần phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên vì cái tất nhiên không tồn tại thuần túy mà bộc lộ qua vô vàn cái ngẫu nhiên và vì không phải cái chung nào cũng là cái tất yếu, nên khi nghiên cứu cái ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung, mà cần phải tiến sâu hơn nữa mới tìm ra cái chung tất yếu.
Tuy nhiên, trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, không được xem nhẹ, bỏ qua cái ngẫu nhiên, mặc dù nó không quyết định xu hướng phát triển của sự vật vì cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên.
4. Có phải mọi thay đổi về lượng đều dẫn tới thay đổi về chất hay không?
Trả lời: Không thể kết luận mọi thay đổi về lượng đều dẫn tới thay đổi về chất.
Vì: Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mác chúng ta biết rằng: khả năng là "cái hiện chưa có" nhưng bản thân khả năng có tồn tại, đó là một sự tồn tại đặc biệt tức là cái sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, song bản thân khả năng thì tồn tại. Hiện thực bao gồm cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại một cách khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý thức của con người
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có những điều kiện lại biến thành hiện thực mới.
Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất. Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng.
Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện. Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện mà là một tập hợp nhiều điều kiện
Như vậy, thay đổi về chất là khả năng còn thay đổi về lượng là hiện thực. Hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổ định, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. So với lượng thì chất thay đổi chậm hơn. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (độ) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật không còn là nó nữa, một sự vật mới ra đời thay thế nó.
Tuy nhiên, Lượng thay đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Chất quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
5. Có phải mọi mâu thuẫn đều là nguồn gốc, động lực của sự phát triển hay không?
Trả lời: Mọi mâu thuẫn đều là nguồn gốc và động lực của sự vận động nhưng là của sự phát triển thì không phải. Chỉ có một số mâu thuẫn mới là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Vì: Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú đa dạng được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có thể phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
• Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.
• Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ sự vật đó với các sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
• Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.
• Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
6. Hãy chứng minh rằng công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam là một sự phủ định biện chứng.
chứng minh dựa trên 2 đặc trưng của phủ định biện chứng
- Tự thân phủ định
- Kế thừa
Kinh tế Việt Nam trước đổi mới là tập trung cao độ, quan liêu. Đến khi đổi mới: nền kinh tế chuyển từ tập trung quản lý sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển sang đến đâu thì nên kinh tế tập trung cao độ biến mất đến đó. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có đặc điểm:
+ Việc phân bổ nguồn lực theo định hướng ở đâu mạnh thì tập trung vào đó (có kế thừa yếu tố kế hoạch định hướng).
+ Vận hành theo cơ chế thị trường thay cho kế hoạch hóa tập trung nhưng có kế thừa yếu tố kế hoạch định hướng
+ Nền kinh tế không xóa bỏ các thành phần kinh tế tư nhân, chấp nhận 1 phạm vi nhất định nhưng thành phần công hữu vẫn giữ chủ đạo
Như vậy: công cuộc đổi mới này là:
1, tự hân phủ định do nhu cầu khách quan theo đúng quy luật.
2, có kế thừa và vượt lên
Trả lời:
Theo triết học Mác - Lênin cho rằng triết học Mác - Lênin thì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Tuy nhiên có sự phủ định chỉ là phá hủy cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến lên và lực lượng phủ định được đưa từ ngoài vào kết cấu của sự vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay cái cũ.
Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
• Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
• Kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng định.
Cái mới trong phủ định biện chứng là cái biểu hiện sự phát triển phù hợp quy luật của sự vật, hiện tượng, là biểu hiện sự chuyển hóa từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao trong quá trình phát triển.
Nội dung quy luật
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ 2 (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường "xoáy ốc" hay "vòng xoáy trôn ốc". Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường "xoáy ốc" dường như thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và dường như trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên như cũ mà trên cơ sở cao hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
III.HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
1. Quốc sách hàng đầu của Việt Nam là ở cái gì?
Trả lời: Là ở giáo dục đào tạo. Vì người lao động quyết định lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất sẽ phát triển. Dẫn tới phương thức sản xuất phát triển. Phương thức sản xuất phát triển mới đạt được công nghiệp hóa hiện đại hóa.
2. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được biểu hiện tập trung ở trình độ phát triển của cái gì ?
Trả lời: Thể hiện tập trung ở trình độ phát triển kỹ thuật công nghệ và trình độ của người lao động trong thực tế của nền sản xuất. Ví dụ trình độ thủ công, cơ giới.
3. Lấy tiêu thức nào để đánh giá sự phù hợp hay không của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất?
Trả lời: Chúng ta cần phải xét trên 3 mặt:
- Về mặt sở hữu có hợp không?
- Về mặt quản lý có hợp không?
- Về mặt phân phối có hợp không?
Theo văn kiện đại hội 9, các tiêu thức được lấy bao gồm:
- Lực lượng sản xuất có được khai thác tối đa và sử dụng tối ưu hay không?
- Sức lao động và đời sống của nhân dân lao động có được đảm bảo và không ngừng được nâng cao hay không ?
2 điều này được thể hiện tập trung ở mức tăng trưởng kinh tế có được ổn định và phát triển hay không? Do đó thường thực tế, sự phù hợp được đo bằng GDP, GNP và khoảng cách mức sống của các bộ phận dân cư.
4. Vì sao ở Việt Nam trong thời kì quá độ nhất định phải thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần ?
Trả lời: Mỗi loại thành phần được phân biệt dựa trên mối quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Ví dụ: Quốc doanh )sở hữu tập thể cùng người lao động, sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Kinh tế tư nhân (dựa trên sở hữu tư nhân). Theo quy luật …. Mà nói sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ còn ở tính chất và trình độ khác nhau cho nên quan hệ sản xuất về mặt sở hữu phải khác nhau. Hiện tại còn đang phân nhỏ sở hữu quốc doanh.
5. Trong kiến trúc thượng tầng thì yếu tố nào là cơ bản nhất và có vai trò lớn nhất với cơ sở hạ tầng?
Trả lời: Yếu tố nhà nước quan trọng nhất vì đại diện cho quyền lực xã hội, quản lý các hoạt động xã hội: từ hoạt động kinh tế cho đến chính trị (nếu nhà nước pháp quyền). Nhưng gắn với yếu tố nhà nước là yếu tố chính trị. Chính trị là linh hồn của nhà nước. Như ở Việt Nam, yếu tố chính trị Cộng sản đại diện là Đảng Cộng sản.
Trong điều kiện nhà nước pháp quyền thì nhà nước không quan trọng bằng hiến pháp và chính trị.
Yếu tố nhà nước mới có tư cách đại biểu cho quyền lực công cộng. Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của 1 đảng chính trị nhất định mà cơ sở xã hội của Đảng đó chính là giai cấp cầm quyền. (Ở việt Nam là giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, người lao động). Nhà nước nắm trong tay quyền lực bạo lực, cưỡng bức, tòa án, quân đội.
6. Từ lý luận về cơ sở kiến trúc hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, phương thức đổi mới của Việt Nam là gì ?
Trả lời:
- Trước hết là đổi mới tư duy nhân tố lãnh đạo Đảng và Nhà nước (đại hội 6): đổi mới phương pháp suy nghĩ giải quyết vấn đề từ không khoa học sang khoa học vì: chính tư duy dẫn tới xác lập thiết chế xã hội: thiết chế kinh tế, chính trị, xã hội.
- Thứ hai là đổi mới phải toàn diện (Vì xã hội là tổng thể các yếu tố rằng buộc nhau nên phải toàn diện) (đại hội 9) , đổi mới đồng bộ (đại hội 12)
- Thứ 3, đổi mới kinh tế là trọng tâm vì theo lý luận hình thái KTXH: kinh tế quyết định chính trị xã hội, nền tảng của xã hội là kinh tế; đổi mới công tác Đảng là nhiệm vụ then chốt (đại hội 12), vì linh hồn của nhà nước là Đảng. Đảng thay đổi thì nhà nước mới thay đổi từ đó dẫn tới thay đổi phát luật ... Nhà nước thay đổi, pháp luật thay đổi thì kinh tế mới phát triển.
7. Khi khẳng định rằng sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, cũng có nghĩa là nó theo quy luật khách quan chứ không tuân theo ý muốn chủ quan. Vậy thì nhân tố chủ quan đóng vai trò gì ?
Trả lời: Nhân tố chủ quan: ý thức tư tưởng của các cá nhân đóng vai trò cơ chế của quy luật đó. Cái khách quan thông qua chủ quan để vận động.
8. Giá cả hàng hóa phụ thuộc vào gì?
Trả lời: Về mặt khách quan phụ thuộc vào giá trị về mặt xã hội.
Về mặt chủ quan: Giá cả chịu sự tác động của cung và cầu.
- Cung:
- Cầu:
Thành thử giá cả phải xoay quanh giá trị nhưng sẽ biến động cao thấp do yếu tố chủ quan tác động.
9. Quá trình vận động và phát triển của xã hội được quyết định bởi gì ?
Trả lời: Được quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Nhưng sự vận động của xã hội thông qua hoạt động có ý thức của con người (hoạt động chủ quan) cho nên pịch sử được tạo ra trên cơ sở đúng quy luật sẽ phát triển nhanh. Nếu không đúng sẽ đi lùi hoặc sụp đổ.
IV. TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
1. Về mặt quan niệm bản tính con người (Thiện, Ác, Không thiện không ác, xã hội), quan niệm nào đúng, quan niệm nào sai? Giá trị của quan điểm ấy? Gắn với xây dựng mô hình quản lý, rèn luyện chính mình?
Trả lời: Mỗi học thuyết có một cái hay, nho giáo dạy cách tu thân, Mac dạy cách làm việc biện chứng.
2. Trong 3 mô hình cai trị (quản lý) (pháp gia, đạo gia, nho gia): nhận định giá trị hạn chế trong ứng dụng?
Trả lời: thực tiễn lịch sử, nhìn chung đề cao mô hình nhân trị hơn mô hình pháp trị và vô vi. Để phát huy mô hình nhân trị cần đào tạo về nhân nghĩa và dùng khích tướng để thúc đẩy động lực.
3. Nhận định giá trị, hạn chế, ưu điểm của từng mô hình quản lý ?
Trả lời: Mỗi mô hình sẽ thích hợp từng điều kiện. Ví dụ tổ chức đang hỗ loạn thì pháp trị cần được áp dụng. Trong điều kiện xã hội phát triển cần dùng nhân trị để xây dựng xã hội bền vững.
4. Hãy nhận định 1 giá trị của nhân sinh quan (cách nhìn cuộc sống) Phật giáo?
Trả lời: Phật giáo phát hiện ra phật tính của con người. Từ phát hiện đó mở ra giải quyết vấn đề của nhân sinh quan: mục đích cao nhất của đời người là gì? Đó là giải thoát nỗi khổ bằng cách đạt được phật tính. Con đường đạt được phạt tính là thực hành lời răn của Phật: Không làm điều ác, mọi điều thiện phải thực hành một cách cung kính, tự mình thanh tịnh ý thức của mình.
5. Theo quan niệm triết học Mac, con người là gì?
Trả lời: Con người là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội.
6. Con người có bản chất gì?
Trả lời: Bản chất là tổng hòa các quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị).>> Cải tạo con người bằng cách cải tạo quan hệ xã hội.
7. Mối quan hệ giữa con người và lịch sử?
Trả lời: Con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
8. Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm vào xây dựng đường lối cách mạng VN như thế nào?
Trả lời: Vận dụng vào xây dựng chính sách cho con người (đào tạo) để phát triển Việt Nam.
9. Luận điểm sau đây có đúng không: Muốn có CNXH phải có con người mới XHCN?
Trả lời: Con người là sản phẩm của lịch sử nên phải có CNXH mới có con người XHCN. Tuy nhiên con người la chủ thể của lịch sử cho nên với một công nghệ giáo dục hiện đại, mới thì sau 10 – 15 năm sẽ tạo ra một thế hệ mới từ đó sẽ có CNXH.
10. Rất nhiều người cho rằng con người luôn hành động theo lợi ích của mình? Đúng hay sai?
Trả lời: Có thể đúng, có thể sai vì còn phụ thuộc vào nhận thức. Nhận thức sai thì có thể hành động không theo lợi ích.
11. Cách thức cải tạo vận mệnh cuộc đời?
Trả lời: Cải tạo theo đúng quy luật (âm dương, ngũ hành, nhân quả). Mỗi quy luật đều có những điều bắt buộc. Thực hiện theo những điều đó thì sẽ cỉa tạo được vận mệnh. Ví dụ làm giả dối thì phúc nhận được sẽ giả dối.
- Lấy giáo trình + Bài giảng
- Thi được dùng 2 tài liệu này
- Thi 90 phút 4 câu có câu chép được theo giáo trình
- Không được bỏ câu, không được bỏ ý trả lời.
- Tiểu luận + điểm
Trong tâm ôn: Chương 2, 3, 5 8
Chương 1:
- Khái niệm triết học
- Khái niệm triết lý
- Khái niệm triết học phương đông + đặc điểm
- Khái niệm triết học phương tây + đặc điểm
Chương 2, 3, 8 đều có 2 phần: Trước Mác và Mác
Câu hỏi: Đặc điểm của triết học trước Mác:
+ Phương Đông
+ Phương Tây
Bản thể luận triết học trước Mác:
+ Phương Đông: (Ngũ hành, Phật giáo)
+ Phương Tây: (cổ đại hi lạp, triết học cổ điển Đức)
Đặc điểm triết học Mác?
Bản thể luận triết học Mác?
Các dạng câu hỏi:
-- Nội dung
-- Liên hệ thực tiễn Việt Nam
-- Suy luận: nhận định sau đây đúng hay sai theo Bản thể luận triết học Mác.
Cách làm:
+ Trình bày tóm tắt nội dung
+ Nhận định các giá trị, hạn chế của nó
Chương 5: Thuần túy triết học Mác
Cách trả lời của câu suy luận: Đúng nhưng chưa đủ. Kết hợp khách quan và chủ quan.
Khi trả lời các vấn đề liên quan đến con người, xã hội bao giờ cũng phải có:
- Khách quan
- Chủ quan (nhận thức của con người)
Khách quan quyết định, chủ quan tác động.
CÂU HỎI TRIẾT CAO HỌC QUẢN TRỊ NHÂN LỰC KINH TẾ QUỐC DÂN
I. Luận điểm sau đây có đúng không ? Giải thích!
1. Trong nhận thức và thực tiễn cần phải phát huy năng động chủ quan?
2. Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan?
3. Đối với nhân loại, không có vấn đề gì là không thể giải quyết được?
Giải: Cần theo 3 phương án: đúng, sai, đúng nhưng chưa đủ hoặc sai nhưng không hoàn toàn.
1. Nếu theo phương pháp luận của Bản thể luận triết học Mac như …. , dựa vào đây có thể thấy đúng nhưng chưa đầy đủ. Câu đúng là: Trong nhận thức và thực tiễn cần phải phát huy năng động chủ quan trên cơ sở điều kiện khách quan.
2. Tương tự 1: Nếu theo phương pháp luận của Bản thể luận triết học Mac như … dựa vào đây có thể thấy trong nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan kết hợp với phát huy năng động chủ quan để tìm sự tối ưu trong điều kiện khách quan.
3. Đúng. Nếu theo phương pháp luận của Bản thể luận Triết học Mác như …., dựa vào đây có thể thấy đúng nếu đây là nhân loại. Nhiều vấn đề nếu thời điểm này không giải quyết được do thiếu điều kiện khách quan thì thời gian sau, nhân loại có thể giải được. Điều này có được là do khả năng sáng tạo của nhân loại là vô tận.
II. Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mac:
+ Xét về mặt khách quan
+ Xét về mặt chủ quan
1. Tại sao con người có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau, để đảm bảo sự học hỏi đó có giá trị đúng đắn, cần phải làm gì?
Trả lời:
1.1 Tại sao con người có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau:
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, kinh nghiệm đó thể hiện trình độ làm chủ của con người đối với lực lượng tự nhiên và lực lượng xã hội. Nó thể hiện một cách khách quan, được vật thể hóa trong nền văn hóa vật chất và tinh thần của xã hội. Nó có thể ở trong những vật thể cụ thể, trong công cụ sản xuất, trong các quan hệ xã hội, trong ngôn ngữ hoặc trong những hình thức và phương pháp tư duy... Quá trình con người nắm lấy kinh nghiệm của đời sống xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa sự đối tượng hóa (khách quan hóa) với việc cá thể con người giành lấy (chủ quan hóa) bản chất xã hội của mình. Ví dụ, trong quá trình lao động, con người không chỉ phát triển năng lực của mình mà trong quá trình đó, con người đã đối tượng hóa các năng lực ấy trong các vật phẩm. Các vật phẩm đó là kinh nghiệm của con người được kết tinh dưới hình thức vật chất và mang tính khách quan. Các thế hệ sau sử dụng những vật phẩm đó cũng có nghĩa là nắm lấy những kinh nghiệm đã có (chủ quan hóa). Điều này cũng tương tự như trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như đạo đức, thẩm mỹ… Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy, trong quá trình sống của mình, con người có vô vàn mối quan hệ, sự giao tiếp với những người khác. Trước tiên, khi sinh ra, họ là thành viên trong một gia đình nào đó và vì vậy, họ có thể là con cái, anh chị, sau nữa, họ có thể trở thành cha mẹ, ông bà... Họ cũng có thể thuộc về một nhóm xã hội (giai tầng, giai cấp) nào đó và qua đó, cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của nhóm xã hội (giai tầng, giai cấp) ấy. Cuối cùng, họ cũng là một cá nhân trong một cộng đồng dân tộc nào đó và do vậy, họ mang trong mình những giá trị đặc trưng của dân tộc ấy... Nghĩa là, trong cả cuộc đời mình, ở con người luôn diễn ra sự quan hệ với những người khác. Chính những nhân tố này quyết định hoạt động, hành vi của con người. Môi trường xã hội chính là nguồn gốc trực tiếp mà ở đó, con người hấp thụ và cũng rút ra những tư tưởng, tri thức, kinh nghiệm của mình.
1.2 Để đảm bảo sự học hỏi đó có giá trị đúng đắn, cần phải làm gì?
Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mác chúng ta biết rằng: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung
Cụ thể là:
• Cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
• Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung, sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
• Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
• Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
Và chúng ta cũng biết sự tồn tại của Cái chung và cái riêng như sau:
• Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất định và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại.
• Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.
Như vậy chúng ta thấy:
- Kinh nghiệm của mỗi con người là một cái riêng. Và kinh nghiệm đó có thể coi như là một bí quyết riêng của mỗi người. Tuy nhiên kinh nghiệm riêng của mỗi người, khi được tập hợp lại sẽ xuất hiện những cái chung giống nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình. Ví dụ như câu tục ngữ: Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bao cao thì nắng, bay vừa thì râm. Kinh nghiệm của mỗi cá nhân khi nhìn thấy con chuồn chuồn là khác nhau. Người thì nhìn thấy chuồn chuồn bao cao, một lúc sau trời nắng. Người thì nhìn thấy chuồn chuồn bay thấp, và cũng một lúc thì trời mưa. Nhiều người tập hợp lại kinh nghiệm riêng, dựa trên số đông để rút ra cái chung. Học hỏi sự đúng đắn là tìm ra cái chung trong cái riêng.
- Con người thông qua cái chung – những sản phẩm được khách quan hóa, sử dụng các sản phẩm có tính chất chung nay để nắm lấy những kinh nghiệm đã có, thông qua các hoạt động thực tiễn sẽ xuất hiện kinh nghiệm cho riêng từng cá nhân. Cho nên việc học hỏi để có thể đúng đắn cần phải có thực hành để cái riêng xuất hiện từ cái chung.
2. Từ 1 hiện tượng có thể kết luận chính xác, đầy đủ bản chất của sự vật được hay không? Cho ví dụ?
Phân tích 2 ý:
- Chính xác không:
+ Xét về mặt khách quan
+ Xét về mặt chủ quan
- Đầy đủ không:
+ Xét về mặt khách quan
+ Xét về mặt chủ quan
Trả lời:
a. Chính xác không? Chưa chính xác
a1. Xét về mặt khách quan: hiện tượng phản ánh chính xác bản chất. Vì theo lý luận biện chứng của triết học Mác: bản chất phải thể hiện qua hiện tượng. Vậy bất cứ 1 hiện tưởng nào cũng phản ánh bản chất. Vậy không có hiện tượng nào thuần túy là hiện tượng. Mỗi 1 hiện tượng phản ánh 1 phần bản chất. Ví dụ ….
a2. Xét về mặt chủ quan: nhận xét nào chưa chính xác. Do mọi hiện tượng đều được phản ánh qua tư duy con người. Đối tượng quan sát là khách quan nhưng lại áp đặt cái chủ quan để nhận xét. Qua chủ quan, con người đống nhất hiện tượng với bản chất. Từ đó hiện tượng không phản ánh chính xác bản chất.
Tuy nhiên cái chủ quan nếu có phương pháp phản ánh thì có thể phản ánh chính xác bản chất.
b. Đầy đủ không ?
b1. Xét về mặt khách quan là không. Không bao giờ đầy đủ vì mỗi một hiện tượng phản ánh 1 phần bản chất. Ví dụ hiện tượng giao thoa chỉ phán ánh được bản chất sóng nhưng không phản ảnh được bản chất hạt của ánh sáng. Một bản chất là tổng hợp của nhiều đặc tính nên phải qua nhiều hiện tượng.
b2. Xét về mặt chủ quan: không thể phản ánh đầy đủ.
Trà lời: Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mác chúng ta biết rằng: cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan xen, chằng chịt. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định. Những mối liên hệ tất nhiên đó tạo thành bản chất của sự vật. Vậy, bản chất là cái tồn tại khách quan gắn liền với sự vật còn hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, cũng là cái khách quan không phải do cảm giác của chủ quan con người quyết định.
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài. Biểu hiện là:
Bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này
Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau.
Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
• Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật trong khi hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
• Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
• Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất hoặc phản ánh không đúng bản chất[9] (ví dụ: Hiện tượng khúc xạ, ảo ảnh).
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
Chính vì vậy: Thường phải quan sát nghiên cứu hiện tượng rất lớn thì mới có thể tìm ra được bản chất. Nhưng về mặt bản chất – hiện tượng thì có thể số lượng lớn hiện tượng không đưa ra được bản chất. Đôi khi chỉ cần 1 hiện tượng có thể suy ra bản chất của sự vật.
Ví dụ:
- Chỉ cần 1 hiện tượng là sự giao thoa của ánh sáng có thể kết luận bản chất của ánh sáng là sóng.
- Hàng nghìn năm con người thấy mặt trời mọc đằng Đông, lặn đằng Tây nhưng không thể ra được bản chất là Trái Đất quay quanh Mặt Trời chứ không phải Mặt Trời quay quanh Trái Đất.
3. Khi xây dựng dự báo vấn đề cần phải căn cứ vào cái gì? Tất nhiên hay ngẫu nhiên?
Trả lời: Mỗi sự vật trong quá trình vận động luôn chiu sự chi phối bởi: Bản chất khách quan của nó và Tác động của môi trường xung quanh sự vật. Cho nên khi xây dựng hoạt động dự báo thì phải căn cứ trên cả tất nhiên và ngẫu nhiên. Nhưng trước hết cơ bản phải dựa trên Tất nhiên. Cái tất nhiên là cái theo quy luật.
Tuy nhiên để cụ thể hóa và chính xác hóa dự báo phải kết hợp với cái ngẫu nhiên bằng cách xây dựng các giả định nếu điều kiện a b c xảy ra thì sẽ như x y z.
Ví dụ: Thả viên phấn. Theo luật hấp dẫn thì viên phấn sẽ rơi vào trái đất (tất nhiên). Tuy nhiên phải phụ thuộc vào môi trường các yếu tố tác động để dự báo tiếp tục. Nếu lực hấp dẫn mạnh, không có gió thì viên phấn rơi thẳng. Nhưng nếu có gió mạnh thì viên phấn sẽ rơi nghiêng.
Trà lời: Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mác chúng ta biết rằng: Tất nhiên tức phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như vậy. Ngẫu nhiên một phạm trù chỉ cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự kết hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định và có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện khác đi
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Trong quá trình phát triển của sự vật không phải chỉ có cái tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng. Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới dạng thuần túy cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy. Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên
Như vậy, muốn xây dựng một dự báo nào đó trong tương lai cần phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên vì cái tất nhiên không tồn tại thuần túy mà bộc lộ qua vô vàn cái ngẫu nhiên và vì không phải cái chung nào cũng là cái tất yếu, nên khi nghiên cứu cái ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung, mà cần phải tiến sâu hơn nữa mới tìm ra cái chung tất yếu.
Tuy nhiên, trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, không được xem nhẹ, bỏ qua cái ngẫu nhiên, mặc dù nó không quyết định xu hướng phát triển của sự vật vì cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên.
4. Có phải mọi thay đổi về lượng đều dẫn tới thay đổi về chất hay không?
Trả lời: Không thể kết luận mọi thay đổi về lượng đều dẫn tới thay đổi về chất.
Vì: Trên cơ sở phép biện chứng của triết học Mác chúng ta biết rằng: khả năng là "cái hiện chưa có" nhưng bản thân khả năng có tồn tại, đó là một sự tồn tại đặc biệt tức là cái sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, song bản thân khả năng thì tồn tại. Hiện thực bao gồm cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại một cách khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý thức của con người
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có những điều kiện lại biến thành hiện thực mới.
Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất. Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng.
Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện. Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện mà là một tập hợp nhiều điều kiện
Như vậy, thay đổi về chất là khả năng còn thay đổi về lượng là hiện thực. Hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổ định, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. So với lượng thì chất thay đổi chậm hơn. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (độ) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật không còn là nó nữa, một sự vật mới ra đời thay thế nó.
Tuy nhiên, Lượng thay đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Chất quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
5. Có phải mọi mâu thuẫn đều là nguồn gốc, động lực của sự phát triển hay không?
Trả lời: Mọi mâu thuẫn đều là nguồn gốc và động lực của sự vận động nhưng là của sự phát triển thì không phải. Chỉ có một số mâu thuẫn mới là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Vì: Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú đa dạng được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có thể phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
• Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.
• Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ sự vật đó với các sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
• Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.
• Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
6. Hãy chứng minh rằng công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam là một sự phủ định biện chứng.
chứng minh dựa trên 2 đặc trưng của phủ định biện chứng
- Tự thân phủ định
- Kế thừa
Kinh tế Việt Nam trước đổi mới là tập trung cao độ, quan liêu. Đến khi đổi mới: nền kinh tế chuyển từ tập trung quản lý sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển sang đến đâu thì nên kinh tế tập trung cao độ biến mất đến đó. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có đặc điểm:
+ Việc phân bổ nguồn lực theo định hướng ở đâu mạnh thì tập trung vào đó (có kế thừa yếu tố kế hoạch định hướng).
+ Vận hành theo cơ chế thị trường thay cho kế hoạch hóa tập trung nhưng có kế thừa yếu tố kế hoạch định hướng
+ Nền kinh tế không xóa bỏ các thành phần kinh tế tư nhân, chấp nhận 1 phạm vi nhất định nhưng thành phần công hữu vẫn giữ chủ đạo
Như vậy: công cuộc đổi mới này là:
1, tự hân phủ định do nhu cầu khách quan theo đúng quy luật.
2, có kế thừa và vượt lên
Trả lời:
Theo triết học Mác - Lênin cho rằng triết học Mác - Lênin thì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Tuy nhiên có sự phủ định chỉ là phá hủy cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến lên và lực lượng phủ định được đưa từ ngoài vào kết cấu của sự vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay cái cũ.
Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
• Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
• Kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng định.
Cái mới trong phủ định biện chứng là cái biểu hiện sự phát triển phù hợp quy luật của sự vật, hiện tượng, là biểu hiện sự chuyển hóa từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao trong quá trình phát triển.
Nội dung quy luật
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ 2 (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường "xoáy ốc" hay "vòng xoáy trôn ốc". Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường "xoáy ốc" dường như thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và dường như trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên như cũ mà trên cơ sở cao hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
III.HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
1. Quốc sách hàng đầu của Việt Nam là ở cái gì?
Trả lời: Là ở giáo dục đào tạo. Vì người lao động quyết định lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất sẽ phát triển. Dẫn tới phương thức sản xuất phát triển. Phương thức sản xuất phát triển mới đạt được công nghiệp hóa hiện đại hóa.
2. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được biểu hiện tập trung ở trình độ phát triển của cái gì ?
Trả lời: Thể hiện tập trung ở trình độ phát triển kỹ thuật công nghệ và trình độ của người lao động trong thực tế của nền sản xuất. Ví dụ trình độ thủ công, cơ giới.
3. Lấy tiêu thức nào để đánh giá sự phù hợp hay không của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất?
Trả lời: Chúng ta cần phải xét trên 3 mặt:
- Về mặt sở hữu có hợp không?
- Về mặt quản lý có hợp không?
- Về mặt phân phối có hợp không?
Theo văn kiện đại hội 9, các tiêu thức được lấy bao gồm:
- Lực lượng sản xuất có được khai thác tối đa và sử dụng tối ưu hay không?
- Sức lao động và đời sống của nhân dân lao động có được đảm bảo và không ngừng được nâng cao hay không ?
2 điều này được thể hiện tập trung ở mức tăng trưởng kinh tế có được ổn định và phát triển hay không? Do đó thường thực tế, sự phù hợp được đo bằng GDP, GNP và khoảng cách mức sống của các bộ phận dân cư.
4. Vì sao ở Việt Nam trong thời kì quá độ nhất định phải thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần ?
Trả lời: Mỗi loại thành phần được phân biệt dựa trên mối quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Ví dụ: Quốc doanh )sở hữu tập thể cùng người lao động, sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Kinh tế tư nhân (dựa trên sở hữu tư nhân). Theo quy luật …. Mà nói sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ còn ở tính chất và trình độ khác nhau cho nên quan hệ sản xuất về mặt sở hữu phải khác nhau. Hiện tại còn đang phân nhỏ sở hữu quốc doanh.
5. Trong kiến trúc thượng tầng thì yếu tố nào là cơ bản nhất và có vai trò lớn nhất với cơ sở hạ tầng?
Trả lời: Yếu tố nhà nước quan trọng nhất vì đại diện cho quyền lực xã hội, quản lý các hoạt động xã hội: từ hoạt động kinh tế cho đến chính trị (nếu nhà nước pháp quyền). Nhưng gắn với yếu tố nhà nước là yếu tố chính trị. Chính trị là linh hồn của nhà nước. Như ở Việt Nam, yếu tố chính trị Cộng sản đại diện là Đảng Cộng sản.
Trong điều kiện nhà nước pháp quyền thì nhà nước không quan trọng bằng hiến pháp và chính trị.
Yếu tố nhà nước mới có tư cách đại biểu cho quyền lực công cộng. Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của 1 đảng chính trị nhất định mà cơ sở xã hội của Đảng đó chính là giai cấp cầm quyền. (Ở việt Nam là giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, người lao động). Nhà nước nắm trong tay quyền lực bạo lực, cưỡng bức, tòa án, quân đội.
6. Từ lý luận về cơ sở kiến trúc hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, phương thức đổi mới của Việt Nam là gì ?
Trả lời:
- Trước hết là đổi mới tư duy nhân tố lãnh đạo Đảng và Nhà nước (đại hội 6): đổi mới phương pháp suy nghĩ giải quyết vấn đề từ không khoa học sang khoa học vì: chính tư duy dẫn tới xác lập thiết chế xã hội: thiết chế kinh tế, chính trị, xã hội.
- Thứ hai là đổi mới phải toàn diện (Vì xã hội là tổng thể các yếu tố rằng buộc nhau nên phải toàn diện) (đại hội 9) , đổi mới đồng bộ (đại hội 12)
- Thứ 3, đổi mới kinh tế là trọng tâm vì theo lý luận hình thái KTXH: kinh tế quyết định chính trị xã hội, nền tảng của xã hội là kinh tế; đổi mới công tác Đảng là nhiệm vụ then chốt (đại hội 12), vì linh hồn của nhà nước là Đảng. Đảng thay đổi thì nhà nước mới thay đổi từ đó dẫn tới thay đổi phát luật ... Nhà nước thay đổi, pháp luật thay đổi thì kinh tế mới phát triển.
7. Khi khẳng định rằng sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, cũng có nghĩa là nó theo quy luật khách quan chứ không tuân theo ý muốn chủ quan. Vậy thì nhân tố chủ quan đóng vai trò gì ?
Trả lời: Nhân tố chủ quan: ý thức tư tưởng của các cá nhân đóng vai trò cơ chế của quy luật đó. Cái khách quan thông qua chủ quan để vận động.
8. Giá cả hàng hóa phụ thuộc vào gì?
Trả lời: Về mặt khách quan phụ thuộc vào giá trị về mặt xã hội.
Về mặt chủ quan: Giá cả chịu sự tác động của cung và cầu.
- Cung:
- Cầu:
Thành thử giá cả phải xoay quanh giá trị nhưng sẽ biến động cao thấp do yếu tố chủ quan tác động.
9. Quá trình vận động và phát triển của xã hội được quyết định bởi gì ?
Trả lời: Được quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Nhưng sự vận động của xã hội thông qua hoạt động có ý thức của con người (hoạt động chủ quan) cho nên pịch sử được tạo ra trên cơ sở đúng quy luật sẽ phát triển nhanh. Nếu không đúng sẽ đi lùi hoặc sụp đổ.
IV. TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
1. Về mặt quan niệm bản tính con người (Thiện, Ác, Không thiện không ác, xã hội), quan niệm nào đúng, quan niệm nào sai? Giá trị của quan điểm ấy? Gắn với xây dựng mô hình quản lý, rèn luyện chính mình?
Trả lời: Mỗi học thuyết có một cái hay, nho giáo dạy cách tu thân, Mac dạy cách làm việc biện chứng.
2. Trong 3 mô hình cai trị (quản lý) (pháp gia, đạo gia, nho gia): nhận định giá trị hạn chế trong ứng dụng?
Trả lời: thực tiễn lịch sử, nhìn chung đề cao mô hình nhân trị hơn mô hình pháp trị và vô vi. Để phát huy mô hình nhân trị cần đào tạo về nhân nghĩa và dùng khích tướng để thúc đẩy động lực.
3. Nhận định giá trị, hạn chế, ưu điểm của từng mô hình quản lý ?
Trả lời: Mỗi mô hình sẽ thích hợp từng điều kiện. Ví dụ tổ chức đang hỗ loạn thì pháp trị cần được áp dụng. Trong điều kiện xã hội phát triển cần dùng nhân trị để xây dựng xã hội bền vững.
4. Hãy nhận định 1 giá trị của nhân sinh quan (cách nhìn cuộc sống) Phật giáo?
Trả lời: Phật giáo phát hiện ra phật tính của con người. Từ phát hiện đó mở ra giải quyết vấn đề của nhân sinh quan: mục đích cao nhất của đời người là gì? Đó là giải thoát nỗi khổ bằng cách đạt được phật tính. Con đường đạt được phạt tính là thực hành lời răn của Phật: Không làm điều ác, mọi điều thiện phải thực hành một cách cung kính, tự mình thanh tịnh ý thức của mình.
5. Theo quan niệm triết học Mac, con người là gì?
Trả lời: Con người là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội.
6. Con người có bản chất gì?
Trả lời: Bản chất là tổng hòa các quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị).>> Cải tạo con người bằng cách cải tạo quan hệ xã hội.
7. Mối quan hệ giữa con người và lịch sử?
Trả lời: Con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
8. Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm vào xây dựng đường lối cách mạng VN như thế nào?
Trả lời: Vận dụng vào xây dựng chính sách cho con người (đào tạo) để phát triển Việt Nam.
9. Luận điểm sau đây có đúng không: Muốn có CNXH phải có con người mới XHCN?
Trả lời: Con người là sản phẩm của lịch sử nên phải có CNXH mới có con người XHCN. Tuy nhiên con người la chủ thể của lịch sử cho nên với một công nghệ giáo dục hiện đại, mới thì sau 10 – 15 năm sẽ tạo ra một thế hệ mới từ đó sẽ có CNXH.
10. Rất nhiều người cho rằng con người luôn hành động theo lợi ích của mình? Đúng hay sai?
Trả lời: Có thể đúng, có thể sai vì còn phụ thuộc vào nhận thức. Nhận thức sai thì có thể hành động không theo lợi ích.
11. Cách thức cải tạo vận mệnh cuộc đời?
Trả lời: Cải tạo theo đúng quy luật (âm dương, ngũ hành, nhân quả). Mỗi quy luật đều có những điều bắt buộc. Thực hiện theo những điều đó thì sẽ cỉa tạo được vận mệnh. Ví dụ làm giả dối thì phúc nhận được sẽ giả dối.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét